Vơi Gánh Đau Tị Nạn

26 Tháng 4 2018

BS Nguyễn Thanh Tùng

Đời tôi bị đứt ra làm hai bởi một đường ranh rõ rệt: tuổi thơ ấu trong thời chiến tranh Việt Nam, và tuổi trưởng thành của kẻ tị nạn trên đất Mỹ. Tôi đã nghe kể bao chuyện, đọc bao nhiêu sách báo, và xem bao thứ phim và kịch bản về chiến tranh và những sự kiện sau đó.

Tôi nghĩ những câu chuyện ấy đều phản ảnh sự thật. Nhưng đối với tôi, sự thật ấy như là sự thật của một người mù cựa quậy trong bóng tối diễn tả lại những gì anh ta sờ thấy để hình dung ra thế giới quanh mình. Tôi không dám tự hào phô trương là tôi biết sự thật nào đã cướp đi cuộc sống của hàng triệu người và đè nặng trong tâm khảm của bao triệu người còn sống sót.  Như người mù, tôi chỉ có thể diễn tả được sự thật của riêng tôi, những gì tôi đã mò mẫm thấy, và những cảm giác đã dấy lên trong tôi.

Làm sao tôi quên được cảnh một người đàn bà ôm lấy một nấm mồ còn mới mà khóc nức nở. Và dưới lòng đất ấy là xác một thằng bé tôi từng quen biết, chết vì một quả bom Mỹ?

Khi bé, tôi nhớ đã bao lần bị đánh thức vì tiếng xe tăng Liên Xô lăn qua những đường phố Ban Mê Thuật vào tháng 3, 1975. Tôi còn nhớ những đống binh phục vất lại ở một góc phố gần nhà. Tôi đã trông thấy các lính Bắc đi qua, với những anh lính con không lớn hơn tôi bao nhiêu. Trông họ thật ghê sợ với những cây B41 trên vai.

Tôi còn nhớ mãi một buổi sáng mẹ tôi đã đánh thức tôi dậy và khe khẽ bảo chúng tôi phải ra xe mau để tẩu thoát. Tôi đã hỏi mẹ vì sao chị nuôi của tôi không đi cùng. Mẹ bảo mình còn trở lại. Ngờ đâu, mẹ chỉ có thể quay lại sau mấy chục năm.  

Trên đường từ Ban Mê Thuật tới Nha Trang, tôi nhớ chỉ mang trên mình một bộ đồ, và một ít vàng trong giây thắt quanh bụng và hai cổ chân. Cầu nào cũng đã bị mìn phá xập. Chúng tôi phải đi xuống dốc rồi mới leo trở lại, băng qua nhiều đoạn đường. Tôi nhớ mẹ tôi phải thuê người cõng em trai tôi. Xa xa, tôi thấy xác lính treo vắt vẻo trên cây.

Sau khi gặp lại ba tại Saigon, chúng tôi tìm đường trốn thoát. Tôi còn nhớ số đông người tại sân bay Tân Sơn Nhất, rồi tại toà Đại sứ Hoa Kỳ. Khi chạy ra bến sông, chúng tôi lại bị chia cách với ba.  Mẹ bảo, nhẩy mau. Rốt cuộc, ba mẹ con loay hoay xuống xà lan với bao người khác. Xà lan không máy, với các bao cát chất quanh, bị kéo ra khơi rồi bỏ rơi. Mưa. Đàn ông khóc. Em trai và tôi đói và khát. Mãi đến 33 tuổi, khi con đầu lòng của tôi ra đời, tôi mới hiểu nỗi niềm trên khuôn mặt mẹ trong giây phút đó.

Một tàu chuyên chở Mỹ vớt chúng tôi lên. Chỉ vài giờ sau là chúng tôi gặp lại ba tôi trong hàng ngàn người di tản trên boong tàu. Nỗi lo trong tôi giảm nhẹ. Nhưng cái đói và khát vẫn bám chặt.  Ba mẹ có vàng, nhưng không có thức ăn. Tôi chỉ nhớ mang máng là có ai đó cho chúng tôi một miếng gà nóng trước khi thuyền đến bến Manila và chưa bao giờ tôi ăn ngon như vậy.

Tôi không quên những ngày chung sống với gia đình một người Mỹ tại Pennsylvania với hai con nhỏ chặc tuổi tôi, và một cậu bé người Việt mà không phài là em trai tôi. Đám con nít da trắng lấy cắp kẹo Halloween của tôi. Vì còn xa lạ với cách thi đánh ngoặc Trúng/Sai và không hiểu tại sao bài toán nào cũng chỉ có mỗi hai cách trả lời, tôi bị đánh trượt bài thi toán.

Tôi còn nhớ sau khi nghe tin bà ngoại qua đời tại Viêt Nam, mẹ tôi tự dưng biến mất nhiều tháng.

Tôi không nhớ được nhìn thấy ba mẹ ban ngày sau khi chúng tôi rời đi San Jose vì ba mẹ làm việc túi bụi cả năm trời. Tôi từng phải đem tiền ra ngân hàng mỗi tối, từng chồng tiền giấy và ngân phiếu. Chồng dầy nhất là phiếu trợ cấp thực phẩm cho tị nạn.

Tôi còn nhớ một mình lấy máy bay để dọn vào đại học, trong khi các bạn khác đều có phụ huynh đi cùng. Tôi nhớ cảnh tôi  đứng tham dự một buổi nói chuyện về chiến tranh Việt Nam. Oái oăm hơn nữa, chính tại trung tâm John F. Kennedy này, tôi đã lớn tiếng hỏi những hội thảo viên người Mỹ, “Đâu là khía cạnh của người Việt Nam?”

Tôi đã từng ngồi giữa đám người Mỹ để nghe họ nói họ cảm thấy đã có công đóng góp khi biểu tình chống chiến tranh Việt Nam. Lúc ấy tôi nghĩ, chúng tôi cũng đã góp phần trong cuộc chiến ấy.

Tôi nhớ cảnh các cựu quân nhân Mỹ mà tôi chăm sóc vẫn tiếp tục hút thuốc mặc dù họ đang chiến đấu với tử thần ung thư. Họ nói: “Thuốc lá giúp tôi nhớ đến những người lính trận đã chiến đấu bên tôi.” Tôi hiểu chứ, vì tôi thông hiểu cái mặc cảm tôi lỗi của người sống sót.

Một người đàn bà Việt đã từng chia sẻ với tôi như thế này: “Khó khăn lắm tôi mới mang được con trai tôi sang đây. Vậy mà bây giờ nó trách tại sao sanh nó ra để nó phải khổ sở trên cuộc đời.”

Một sinh viên Việt đã nói với tôi, đúng thế, chỉ mình tôi qua đây tị nạn vì bố tôi đã bị hải tặc bắn và đẩy xác xuống biển.

Tôi sợ rừng vì khi bé ba mẹ thường dặn tôi đừng lang thang vào rừng đầy mìn.  

Các vị lãnh đạo cộng đồng đốc thúc chúng tôi đừng quên đi nguồn cội và nơi chôn nhau cắt rún, và đừng làm ngơ trước những đau thương của người cùng khổ, kể cả những đồng bào đang còn bị áp bức trên quê hương. Nhiều vị ấy nay lại khuyên chúng ta nên bỏ phiếu ủng hộ những kẻ áp bức dân thiểu số, người tị nạn, tàn tật bệnh hoạn, và người nghèo.

Tôi tự hỏi, nhớ làm gì lịch sử quê hương, văn hoá, truyền thống, ngôn ngữ, và những đau khổ cũ, khi chúng ta không biết dựa trên bao nhớ nhung ấy để giúp đỡ những kẻ cùng tâm trạng. Có rất nhiều người Mỹ gốc Việt nghèo và bệnh hoạn muốn mang gia đình họ qua đây đoàn tựu.

Đây là những sự thật mà tôi đã cảm thấy, những sự thật đã làm tôi xúc động. Nét đặc thù của riêng tôi, cũng như của từng mỗi cá nhân, không làm tôi khác biệt với bao người khác, cũng như sự đau khổ của người Mỹ gốc Việt không khác biệt gì với những đau khổ của mọi người khác trên toàn thế giới.

Gánh nặng của người tị nạn là gì? Tại sao chúng ta không cùng vác nó với các kẻ tị nạn khác, để cùng nhau làm bớt nỗi khổ đau?